Dù làn sóng tức giận lan rộng nhằm phản đối việc cứu trợ Phố Wall, nhưng việc đó không làm bùng phát chủ nghĩa dân túy cánh tả Mỹ. Dễ hiểu khi phong trào Chiếm phố Wall thu hút sự tham gia của nhiều người, nhưng phong trào dân túy lớn nhất gần đây phải nói đến là Đảng Trà cánh hữu, mà mục tiêu là muốn có sự điều tiết của nhà nước để bảo vệ những người dân bình thường khỏi tình trạng đầu cơ tài chính. Một điều tương tự cũng đang diễn ra tại châu Âu, nơi cánh tả đang suy tàn trong khi các đảng dân túy cánh hữu đang lên như diều gặp gió.
Có một số lý do giải thích sự thiếu năng động này của cánh tả, nhưng quan trọng nhất là do thiếu ý tưởng. Trong thế hệ vừa qua, nền tảng tư tưởng cao trong các vấn đề kinh tế thuộc về một cánh hữu tự do. Cánh tả không thể tạo ra một lịch trình nào hợp lý ngoài việc quay lại một dạng dân chủ xã hội kiểu cũ đã lỗi thời. Sự thiếu vắng này không tốt vì cạnh tranh rất cần thiết cho cuộc tranh luận trí thức cũng như đối với hoạt động kinh tế. Một cuộc tranh luận trí thức nghiêm túc rất cần thiết, vì hình thái tư bản chủ nghĩa toàn cầu hóa hiện nay đang làm xói mòn nền tảng xã hội của tầng lớp trung lưu, mà dựa trên đó nền dân chủ tự do phát triển.
Ngày nay có một sự đồng thuận rộng rãi về tính hợp pháp, ít nhất là về nguyên tắc, của dân chủ tự do. Nói như chuyên gia kinh tế Amartya Sen, "Trong khi dân chủ chưa được thực thi ở mọi nơi, và vì vậy không được thừa nhận giống nhau, dư luận nói chung cho rằng sự quản lý dân chủ hiện nay là đúng đắn". Nó được chấp nhận rộng rãi ở những quốc gia đã đạt đến một mức thịnh vượng về vật chất đủ để cho phép đa số công dân mình tự coi mình là tầng lớp trung lưu, đó là lý do tại sao có sự tương quan giữa mức độ phát triển cao với dân chủ ổn định.
Một số xã hội, như Iran và Arập Xêút, bác bỏ dân chủ tự do để ủng hộ một dạng chính trị thần quyền Hồi giáo. Cho tới nay các chế độ này đang ở giới hạn chết của sự phát triển, chỉ còn sống sót vì họ đang ngồi trên các mỏ dầu lớn. Thế giới Arập từng rất hy vọng vào làn sóng thứ ba, nhưng Mùa xuân Arập đã chứng tỏ rằng công chúng Arập có thể tập trung lại chống chế độ độc tài như ở Đông Âu và Mỹ Latinh trước đây. Điều này tất nhiên không có nghĩa là bước đường tới một nền dân chủ vận hành tốt sẽ dễ dàng hay thẳng phía trước ở Tunisia, Ai Cập hay Libya, mà điều đó có nghĩa là tham vọng tự do chính trị và sự tham gia của nhân dân không phải là một nét văn hóa kỳ quặc của riêng người châu Âu và người Mỹ.
Trung Quốc được kế thừa một truyền thống tự hào và lâu đời đó là chính phủ quan liêu chất lượng cao từng tồn tại hai thiên niên kỷ. Giới lãnh đạo của họ đã điều hành thành công quá trình chuyển tiếp cực kỳ phức tạp từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung kiểu Liên Xô thành một nền kinh tế mở cửa năng động và đã làm được điều đó với năng lực xuất sắc - thành thực mà nói còn xuất sắc hơn giới lãnh đạo Mỹ từng thể hiện trong việc quản lý chính sách vĩ mô của nước mình gần đây.

Thu nhập bình quân ở Mỹ đã chững lại từ những năm 1970. Tác động kinh tế của sự chững lại này đã được giảm nhẹ trong một chừng mực nào đó bởi thực tế là trong thế hệ gần đây, hầu hết các hộ gia đình Mỹ đã có hai người - thay vì một người - kiếm ra thu nhập. Hơn nữa, khi chuyên gia kinh tế Raghuram Rajan khẳng định rằng từ khi người Mỹ buộc phải thực hiện phân phối lại một cách trung thực, nước Mỹ thay vì thế đã thử một dạng tái phân phối không hiệu quả và nguy hiểm trong thế hệ vừa qua bằng việc trợ cấp cho hộ gia đình có thu nhập thấp đi vay thế chấp. Xu hướng này, được tạo điều kiện bởi một dòng tiền mặt đổ vào từ Trung Quốc và các nước khác, khiến nhiều người Mỹ bình thường có ảo tưởng rằng mức sống của họ đang tăng lên một cách vững chắc trong thập kỷ qua. Như vậy, sự bùng nổ bong bóng nhà ở năm 2008-2009 không là gì hơn việc thu hồi phương tiện đó một cách bạo lực. Ngày nay, người Mỹ được hưởng lợi từ điện thoại di động giá rẻ, quần áo giá rẻ, và Facebook, nhưng họ ngày càng không thể có đủ sức chi trả tiền nhà, hay bảo hiểm y tế, hoặc không được nhận đủ lương hưu.
Một hiện tượng có vấn đề hơn, được nhà tư bản táo bạo Peter Thiel và chuyên gia kinh tế Tyler Cowen đưa ra, là lợi nhuận của hầu hết làn sóng cải tiến công nghệ gần đây đã gia tăng không tương xứng với số người được giáo dục tốt và có tài năng nhất trong xã hội. Hiện tượng này góp phần làm gia tăng sự bất công tại Mỹ trong thế hệ vừa qua. Năm 1974, 1% hộ gia đình giàu nhất nước Mỹ chiếm 9% GDP; năm 2007, con số này tăng lên 23,5%.
Các chính sách thương mại và thuế khóa có thể thúc đẩy xu hướng này, nhưng thủ phạm thực sự ở đây là công nghệ. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa - thời dệt may, than đá, thép và động cơ đốt trong - lợi ích từ những thay đổi công nghệ hầu như lúc nào cũng được thể hiện qua việc tạo công ăn việc làm mới. Nhưng đó không phải là một quy luật tự nhiên. Ngày nay chúng ta sống trong cái mà học giả Shoshana Zuboff gọi là "kỷ nguyên máy thông minh", trong đó công nghệ ngày càng có khả năng thay thế sức người tốt hơn và nhiều hơn. Mỗi tiến bộ lớn của Silicon Valley sẽ đồng nghĩa với mất đi nhiều việc làm đòi hỏi kỹ năng thấp ở nơi khác trong nền kinh tế, một xu hướng sẽ không sớm chấm dứt.
Những ý tưởng và chính sách thông minh có thể ẩn chứa những thiệt hại. Đức đã thành công trong việc bảo vệ một phần đáng kể cơ sở sản xuất và lực lượng lao động công nghiệp ngay cả khi các công ty của họ vẫn phải chịu sự cạnh tranh toàn cầu. Nhưng mặt khác, Mỹ và Anh đã hài lòng theo đuổi chuyển đổi sang nền kinh tế dịch vụ hậu công nghiệp. Thương mại tự do bỗng chỉ còn là một học thuyết chứ không còn là tư tưởng: khi các thành viên Quốc hội Mỹ cố trả đũa bằng các trừng phạt thương mại đối với Trung Quốc vì đã không định giá lại đồng nhân dân tệ, họ đã bị buộc tội là áp dụng chủ nghĩa bảo hộ.
Đã có không ít các buổi thảo luận về những điều kỳ điệu của nền kinh tế tri thức, cũng như việc các công việc sản xuất nguy hiểm và dơ bẩn chắc chắn bị thay thế bởi các công nhân được giáo dục cao cùng những sáng tạo của họ như thế nào. Đây là một tấm voan nhẹ phủ lên những thực tế nặng nề của quá trình giảm công nghiệp hóa. Nó cho thấy thực tế là lợi ích của trật tự mới đổ dồn một cách bất cân bằng vào một lượng người rất nhỏ làm trong lĩnh vực tài chính và công nghệ cao, những lợi ích đang được nói tới rất nhiều trên truyền thông cũng như trong các cuộc thảo luận chính trị.
Tại Mỹ chẳng hạn, dù Đảng Trà có những tuyên bố chống lại giới ưu tú, nhưng các thành viên đảng này vẫn ủng hộ các chính trị gia bảo thủ dù những người này phục vụ cho lợi ích của những nhà tư bản tài chính và giới chủ tập đoàn mà họ vẫn khinh miệt. Có nhiều cách giải thích hiện tượng này. Có một niềm tin sâu sắc vào sự công bằng về cơ hội hơn là sự công bằng về thu nhập, và thực tế là các vấn đề văn hóa, như quyền nạo thai và quyền sở hữu súng, đang vượt lên trên các vấn đề kinh tế.
Nhưng lý do sâu xa hơn khiến một cánh tả dân túy không trở thành hiện thực là lý do tri thức. Cách đây vài thập kỷ, không ai trong cánh tả có khả năng đưa ra một phân tích thuyết phục về điều xảy ra đối với cấu trúc xã hội tiên tiến khi có thay đổi về kinh tế, hay một lịch trình thực tế có hy vọng bảo vệ xã hội của tầng lớp trung lưu.
Xu hướng mới ở cánh tả trong hai thế hệ qua quả thật là thảm hại về cả nền tảng khái niệm cũng như công cụ huy động của nó. Cánh tả hàn lâm đã thay thế bằng chủ nghĩa hậu hiện đại, chủ nghĩa đa văn hóa, chủ nghĩa nữ quyền, học thuyết phê phán, và một loạt các xu hướng trí thức khác mang tính văn hóa nhiều hơn kinh tế. Chủ nghĩa hậu hiện đại bắt đầu với sự phủ nhận khả năng của bất kỳ lãnh đạo lịch sử hay xã hội nào, cắt bỏ quyền lực của họ như để nói lên tiếng nói của đa số nười dân. Chủ nghĩa đa văn hóa hợp lý hóa việc bảo vệ nạn nhân của bất kỳ ai ngoài nhóm.
Cho dù các biện hộ về lý thuyết nhấn mạnh lịch trình của cánh tả, vấn đề lớn nhất của nó là sự thiếu tính đáng tin. Trong hai thế hệ qua, xu hướng chủ đạo của cánh tả đi theo một chương trình dân chủ xã hội tập trung vào việc nhà nước cung cấp một loạt dịch vụ như hưu trí, y tế và giáo dục. Mô hình đó giờ đã lỗi thời: các nhà nước an sinh xã hội đã trở nên to lớn, quan liêu và cứng nhắc; họ thường bị chiếm đoạt bởi chính các tổ chức mà họ điều hành, thông qua các nghiệp đoàn công; và quan trọng nhất, họ không đủ sức chịu đựng về tài chính vì dân số đang già đi ở mọi nơi trong thế giới phát triển. Như vậy, khi các đảng dân chủ xã hội hiện tại lên nắm quyền, họ không còn ham vọng trông coi nhà nước an sinh xã hội được tạo ra cách đây vài thập kỷ nữa; không đảng nào có một lịch trình mới, hấp dẫn để thu hút người dân.
Hãy tưởng tượng vào một thời điểm nào đó, một nhà văn xoàng nào đó trên một căn gác xép ở đâu đó đang cố vạch ra một tư tưởng cho tương lai có thể mở ra một con đường thực tế hướng tới một thế giới với những xã hội thượng lưu lành mạnh và các nền dân chủ hùng mạnh. Tư tưởng đó sẽ thế nào?
Nó ít nhất sẽ phải có hai thành phần, chính trị và kinh tế. Về chính trị, tư tưởng mới sẽ cần khẳng định lại tính ưu việt của nền chính trị dân chủ so với kinh tế, và hợp pháp hóa một chính phủ mới như một sự thể hiện của lợi ích quần chúng. Nhưng lịch trình mà nó đưa ra để bảo vệ cuộc sống của tầng lớp trung lưu có thể không đơn giản chỉ dựa trên các cơ chế hiện tại của nhà nước an sinh xã hội. Tư tưởng đó sẽ cần thiết kế lại lĩnh vực công, giải phóng nó khỏi sự phụ thuộc vào các cổ đông hiện nay và sử dụng các cách tiếp cận mới dựa trên công nghệ để cung cấp dịch vụ. Nó sẽ phải nhất quyết đòi phân phối lại và đưa ra một con đường thực tế để chấm dứt sự chế ngự về chính trị của các nhóm lợi ích.
Về kinh tế, tư tưởng đó không nên bắt đầu bằng việc phủ nhận chủ nghĩa tư bản như thể chủ nghĩa xã hội kiểu cũ vẫn là một giải pháp thay thế bền vững. Đúng hơn, chính các dạng thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản đang lâm nguy và mức độ các chính phủ giúp các xã hội cần được thay đổi. Toàn cầu hóa không nên bị xem là một thực tế cuộc sống không lay chuyển, mà là một thách thức và một cơ hội cần được kiểm soát thận trọng bằng chính trị. Tư tưởng mới không nên coi thị trường là một sự kết thúc; thay vì thế, nên đánh giá cao thương mại toàn cầu và đầu tư để góp phần tạo ra một tầng lớp trung lưu nở rộ, không chỉ là gia tăng tổng tài sản quốc gia.
Tuy nhiên, rất khó đạt được những điều trên nếu không có một sự phê bình nghiêm túc và liên tục đối với các thể chế của nền kinh tế tân cổ điển hiện đại, bắt đầu từ các giả định căn bản như quyền tự chọn của cá nhân và rằng tăng thu nhập là một biện pháp đúng đắn tạo ra sự thịnh vượng quốc gia. Phải thừa nhận rằng thu nhập của người dân không hẳn đại diện cho sự đóng góp thực tế của họ vào xã hội. Tuy nhiên, cần đi xa hơn và thừa nhận rằng ngay cả khi các thị trường lao động hoạt động hiệu quả, sự phân bố tự nhiên của tài năng không hẳn đã công bằng và các cá nhân không phải là những thực thể có chủ quyền mà được định hình bởi các xã hội xung quanh.
Hầu hết các ý tưởng này đã từng xuất hiện ở đâu đó một thời gian; nhà văn xoàng nói trên có lẽ đã phải đặt mình trong một cái hộp kín. Ông ta, hay bà ta, chắc cũng đã phải né tránh vấn đề "nhầm địa chỉ". Như vậy, phê bình toàn cầu hóa sẽ phải gắn liền với chủ nghĩa dân tộc như một chiến lược để huy động theo cách xác định lợi ích quốc gia một cách tinh vi hơn, ví dụ như chiến dịch "Người Mỹ dùng hàng Mỹ" của các nghiệp đoàn tại Mỹ. Sản phẩm sẽ là một sự tổng hợp các ý tưởng từ cả cánh tả và cánh hữu, không lệ thuộc vào lịch trình của các nhóm thứ yếu tạo thành phong trào cấp tiến hiện nay. Ý tưởng đó phải mang tính dân túy; thông điệp sẽ bắt đầu với việc phê bình giới lãnh đạo đã để cho lợi ích của nhiều người bị hy sinh vì lợi ích của một số ít người, và phê bình chính sách tiền tệ, đặc biệt ở Washington, chủ yếu phục vụ lợi ích người giàu.
Những nguy hiểm cố hữu trong một phong trào như thế rất rõ: đặc biệt, nước Mỹ sẽ bị thụt lùi từ vị trí ủng hộ một hệ thống toàn cầu mở cửa hơn có thể là lời đáp lại chủ nghĩa bảo hộ ở nơi khác. Cuộc cách mạng Reagan - Thatcher đã thành công đúng như những người đề xướng ra nó kỳ vọng, tạo ra một thế giới cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngày càng toàn cầu hóa và không có xích mích. Trên con đường này, nó tạo ra rất nhiều của cải vật chất và tạo ra tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo trong toàn thế giới đang phát triển, và cùng với đó là sự lan rộng của dân chủ.
Có thể thế giới phát triển đang ở đỉnh cao của một loạt đột phá công nghệ không chỉ giúp tăng sản lượng mà còn tạo công ăn việc làm cho một lượng lớn người gia nhập tầng lớp trung lưu. Nhưng có là một vấn đề về niềm tin. Có nhiều lý do để nghĩ rằng bất công sẽ tiếp tục diễn biến tệ hơn. Sự tập trung tài sản hiện nay tại Mỹ đã tự gia tăng: như chuyên gia kinh tế Simon Johnson đã nói, lĩnh vực tài chính đã vận động hậu trường để tránh các dạng điều chỉnh nặng nề. Trường học cho con nhà khá giả thì tốt hơn bao giờ hết trong khi trường học cho những người khác tiếp tục xuống cấp. Giới lãnh đạo trong tất cả các xã hội sử dụng khả năng tiếp cận tốt hơn với hệ thống chính trị để bảo vệ lợi ích của mình mà không huy động sự tham gia dân chủ để thay đổi tình hình. Giới lãnh đạo Mỹ không phải là ngoại lệ.
Tuy nhiên, sự huy động đó sẽ không xảy ra chừng nào tầng lớp trung lưu trong thế giới phát triển vẫn còn mê mệt với câu chuyện của thế hệ cũ: rằng lợi ích của họ sẽ được phục vụ tốt nhất bởi các thị trường tự do hơn nữa và các nhà nước nhỏ hơn. Câu chuyện khác không nằm ở đó và đang chờ được sinh ra./.
- Thông tin tác giả: Francis Fukuyama là một chuyên gia thuộc Trung tâm Dân chủ, Phát triển và Luật pháp tại đại học Stanford. Cuốn sách gần đây nhất của ông là "Nguồn gốc của trật tự chính trị: từ trước khi có loài người đến cách mạng Pháp".
Nhận xét
Đăng nhận xét